Bài viết: Luật sư Nguyễn Văn Hậu
Tuy nhiên, mọi hành vi “vu khống”, bôi nhọ người khác trên một trang mạng xã hội mà những thông tin này là bịa đặt, xuyên tạc, sai sự thật nhằm bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác là vi phạm pháp luật và luật pháp nước ta. có đủ chế tài xử lý người thực hiện hành vi nêu trên.
điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng, nghiêm cấm việc lợi dụng điều này theo quy định của pháp luật thông tin. sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích truyền bá thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Tùy theo mức độ vi phạm và tính chất của hành vi, người vi phạm sẽ bị xử lý như sau:
Về xử lý hành chính:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 và Khoản 3 Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện thì người nào có hành vi “cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ hoặc sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
\N
Về xử lý hình sự:
Theo quy định tại Điều 122 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 thì người nào bịa đặt, loan truyền những điều mình biết là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp. của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Nếu phạm tội có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; hoặc phạm tội đối với nhiều người thì có thể bị phạt tù từ 01 năm – 07 năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Trong đó, bịa đặt được hiểu là hành vi bịa ra điều không đúng sự thật của người khác nhằm bôi nhọ, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp. của chúng. Còn hành vi tung tin mà ai cũng biết là bịa đặt là trường hợp người phạm tội không bịa đặt, nhưng tung tin mà mình biết rõ là tin bịa đặt, không đúng sự thật. Sự lan truyền này có thể dưới nhiều hình thức khác nhau như: sao chép cho nhiều người qua tin nhắn (message), kể lại cho người khác, đăng trạng thái (status), bình luận (comment). Trên Facebook…
Ngoài ra, về trách nhiệm dân sự: Theo quy định tại Điều 25 BLDS 2005, người bị xâm phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm do hành vi nói xấu, bôi nhọ trên Facebook thì có quyền yêu cầu người đó yêu cầu. vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít trường hợp người vi phạm bị xử lý nên tình trạng vi phạm ngày càng phổ biến, không có điểm dừng bởi không phải trường hợp nào người bị vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm… cũng lên tiếng phản đối. Điều này đặt ra yêu cầu không chỉ các cơ quan Nhà nước mà bản thân mỗi người dân phải ý thức, chịu trách nhiệm về từng hành động, lời nói của mình; lên tiếng phản đối, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật.