Cụ thể, báo cáo cho thấy, theo quy định hiện hành, Tổng cục Thuế thu thuế thông qua các tổ chức tại Việt Nam (thuế nộp thay cho nhà thầu nước ngoài) với doanh thu bình quân hơn 1.100 tỷ đồng / năm.
Từ năm 2018 đến hết tháng 4/2022, các tổng công ty xuyên biên giới đã kê khai, nộp thuế với tổng số tiền hơn 5.111 tỷ đồng. Trong đó, một số tập đoàn lớn như Facebook nộp 1.965 tỷ đồng, Google nộp 1.902 tỷ đồng, Microsoft nộp 651 tỷ đồng.
Năm 2018, thu thuế thương mại điện tử và dịch vụ số xuyên biên giới đạt 770 tỷ đồng, năm 2019 đạt 1.168 tỷ đồng, năm 2020 đạt 1.143 tỷ đồng và năm 2021 đạt 1.591 tỷ đồng, 4 tháng đầu năm 2022 đạt 437 tỷ.
Về quản lý thu thuế đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam có thu nhập từ cung cấp dịch vụ số xuyên biên giới, hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, lũy kế đến hết tháng 4/2022, cơ quan thuế đã thu từ xử lý vi phạm, chống thất thu khoảng 735 tỷ đồng. VND (doanh thu 4 tháng đầu năm 2022 là 176 tỷ đồng).
Facebook và Google nộp thuế rất ít do doanh thu đạt được ở Việt Nam
tn |
Tuy nhiên, Bộ Tài chính đánh giá, với đặc thù của nền kinh tế số và tốc độ phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam đang đặt ra nhiều thách thức đối với công tác quản lý thuế.
Thứ nhất, trong điều kiện nền kinh tế số, các tổ chức, cá nhân có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh xuyên biên giới mà không bị bất kỳ quốc gia nào đánh thuế theo nguyên tắc quản lý thuế truyền thống. Các quốc gia dựa trên sự hiện diện thực tế của người nộp thuế, trong khi các doanh nghiệp và cá nhân có thể phân phối thu nhập đến các địa điểm thân thiện với thuế nhất theo quy định của mỗi quốc gia.
Thứ hai, không xác định được cơ sở tính thuế. Trong môi trường kỹ thuật số, các hoạt động kinh doanh có thể được thực hiện thông qua một trang web có mặt tại một khu vực thị trường nhất định mà không cần sự hiện diện thực tế của người nộp thuế tại đó.
\N
Nói cách khác, “sự hiện diện kỹ thuật số” không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thuế mà dựa trên “sự hiện diện vật lý” của tổ chức kinh doanh – nguyên tắc thuế hiện hành. Điển hình cho hoạt động này là hoạt động quảng cáo và tương tác trực tuyến thông qua nền tảng của mạng xã hội.
Thứ ba, không phân biệt rõ ràng loại thu nhập làm căn cứ tính thuế. Trong nền kinh tế kỹ thuật số, rất khó để phân biệt một số loại thu nhập, đặc biệt là tiền bản quyền, phí dịch vụ và lợi nhuận kinh doanh. Ví dụ, điển hình là doanh thu liên quan đến phần mềm, sản phẩm nội dung thông tin số, ứng dụng đăng tải trên Internet,… nên rất khó xác định số tiền phải trả cho tiền bản quyền, phí dịch vụ hay lợi nhuận. kinh doanh.
Ngoài ra, mô hình kinh tế chia sẻ cũng đặt ra nhiều câu hỏi trong việc xác định ngành, lĩnh vực kinh doanh để làm căn cứ tính thuế giá trị gia tăng, nghĩa vụ kê khai thuế, chẳng hạn xác định mô hình của Grab – là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải hay chỉ cung cấp các dịch vụ kết nối.
Thứ tư, khó kiểm soát giao dịch kinh doanh để quản lý đối tượng thu thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Vì chủ doanh nghiệp thương mại điện tử không cần đến cửa hàng, cửa hàng theo phương thức truyền thống, các giao dịch hoàn toàn được thực hiện bằng phương thức điện tử, máy chủ có thể đặt ở nước ngoài, một đối tượng có thể có nhiều cửa hàng trên một sàn thương mại điện tử. trao đổi, đồng thời trên nhiều sàn giao dịch thương mại điện tử, đồng thời trên nhiều trang mạng xã hội.
Cuối cùng, theo Bộ Tài chính, việc kiểm soát dòng tiền cũng không hề đơn giản. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế số, các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng rất đa dạng như: thanh toán qua ngân hàng, thanh toán điện tử, thanh toán ngang hàng (P2P), tiền điện tử. ..
Tại Việt Nam, việc kiểm soát các giao dịch kinh doanh thương mại điện tử trong nước càng khó khăn hơn khi hệ thống thanh toán theo hình thức COD (nhận tiền mặt khi nhận hàng) được áp dụng phổ biến hơn các hình thức phi thanh toán khác. sử dụng tiền mặt.